Là các loại hình hòa giải được pháp luật các nước quy định, theo đó việc hòa giải là một khâu trong trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng, hoặc thiết lập một thể chế hòa giải ở địa phương.
Ở Việt Nam hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động (tranh chấp lao động), các vụ án hôn nhân – gia đình tại toà án nhân dân hay tại một tổ chức, hay tại Hội đồng trọng tài đều thông qua khâu hòa giải như một thủ tục bắt buộc. Khi hòa giải thành, toà án, trọng tài sẽ ra quyết định công nhận kết quả hòa giả mà không cần phải tiến hành xét xử. Các bên tranh chấp cũng có thể tự tổ chức hòa giải tranh chấp ngoài phạm vi tố tụng của toà án và trọng tài.
Pháp luật của Việt Nam cũng quy định về công tác hòa giải những xích mích, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân bằng công tác hòa giải ở đơn vị cơ sở. Việc giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở các khu vực dân cư do các tổ hòa giải cơ sở thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 172 của “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992″ quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật”. Ngày 25.12.1998, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở và sau này, năm 2012 đã ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở để thay thế. Tựu trung lại, pháp luật Việt Nam quy định có các dạng hòa giải sau:
– Hoà giải được tiến hành ở Tòa án nhân dân, theo đó Tòa án nhân dân trong quá trình tiến thành tố tụng phải thực hiện nguyên tắc hoà giải. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã khẳng định trong Điều 10 về nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự”. Bộ luật cũng quy định cụ thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải như yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản nhà nước hoặc những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội. Bản chất của quan hệ dân sự là được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, không giống với tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính, mà hòa giải là một biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc tòa án phải thực hiện. (Những vấn đề cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Vụ Công tác Lập pháp – Văn phòng Quốc hội, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2004)
– Hoà giải được tiến hành tại các cơ quan quản lý lao động theo quy định của Bộ Luật lao động. Đây là một nguyên tắc trong việc giải quyết tranh chấp lao động theo quy định tại Điều 158 của Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2002. Theo đó, các tranh chấp về lao động có thể yêu cầu Hoà giải viên, Hội đồng hoà giải, Hội đồng trọng tài giải quyết trước khi khởi kiện ra Toà án lao động. Theo quy định của pháp luật lao động, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về lao động bao gồm:
- Hội đồng hòa giải cơ sở: Hội đồng này được thành lập tại các doanh nghiệpsử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên, nó có thẩm quyền hòa giải mọi tranh chấp giữa người lao động, tập thể người lao động với người sử dụng lao động. Hội đồng hòa giải cơ sở gồm số người dại diện ngang nhau của bên người sử dụng lao động, số lượng do hai bên thỏa thuận. Nhiệm kỳ của Hội đồng là hai năm. Đại diện của mỗi bên luân phiên làm chủ tịch và thư ký hội đồng. Hội đồng làm việc theo nguyên tắc thỏa thuận và nhất trí
- Hòa giải viên lao động: Là một người do cơ quan lao động cấp huyện cử ra, có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp lao động ở những nơi chưa thành lập Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, giải quyết các tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động, tranh chấp về thực hiện hợp đồng dạy nghề và phí dạy nghề.
- Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh: Là hội đồng do cơ quan lao động cấp tỉnh lập ra và cử đại diện làm chủ tịch, có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp lao động tập thể đã qua hòa giải cơ sở nhưng không thành. Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh được thành lập theo số lẽ và tối đa không quá 09 thành viên, gồm các thành viên chuyên trách và kiêm chức (kiêm nhiệm) là đại diện của cơ quan lao động, đại diện của công đoàn, đại diện của những người sử dụng lao động và một số luật gia, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở địa phương. Nhiệm kỳ của Hội đồng này là 03 năm. Hội đồng làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số bằng cách bỏ phiếu kín.
- Tòa án nhân dân: Tòa Lao động của Tòa án nhân dân trực tiếp giải quyết các vụ án lao động. Cũng như các tòa hình sự, dân sự, Tòa Lao động là một tòa chuyên trách trong tổ chức hệ thống tòa án nhân dân.
– Hòa giải tại Ủy ban nhân dân: Đây là việc hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã đối với các tranh chấp về đất đai theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ năm 2004 về thi hành Luật Đất đai, đây là loại hòa giải mang tính chất bắt buộc trước khi thực hiện các thủ tục hành chính kế tiếp”
– Hoà giải ở cơ sở: Là hòa giải được tổ chức ở cơ sở (xóm, ấp, tổ dân phố…), đây là loại hòa giải tự nguyện theo Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
Cũng theo quy định của pháp luật hiện hành, các bên không được phép hòa giải một số vụ việc liên quan đến huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật, đòi bồi thường thiệt hại tài sản của nhà nước, những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật, những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điểm ghi trong giấy tờ về hộ tịch, những việc khiếu nại về danh sách cử tri và những việc khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở.
Nguồn: WikiMedia
————–
Văn phòng Luật sư Sài Gòn trẻ
Địa chỉ: 104-106, Ngô Quyền, Phường 7, Quận 5, HCM
Số điện thoại: 0985.773.779