Luật Nhà ở năm 2014 đã mở rộng phạm vi cho tổ chức nước ngoài được quyền sở hữu bất động sản tại Việt Nam. Ông Nguyễn Mạnh Khởi, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Nhà thuộc Bộ Xây dựng, đã chia sẻ những điểm cốt yếu về vấn đề này.
1. Liên quan đến đối tượng có quyền sở hữu bất động sản tại Việt Nam:
Theo Nghị quyết 19/2008/QH12 ngày 3/6/2008 của Quốc hội, việc cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài mua và sở hữu bất động sản tại Việt Nam chỉ có hiệu lực đến hết ngày 30/6/2015. Cụ thể, các tổ chức nước ngoài được phép sở hữu bất động sản tại Việt Nam bao gồm tổ chức nước ngoài đầu tư xây dựng bất động sản để cho thuê hoặc bán, cũng như các doanh nghiệp nước ngoài có vốn đầu tư tại Việt Nam theo quy định về đầu tư và không có chức năng kinh doanh bất động sản, nhưng có nhu cầu về bất động sản để cung cấp cho nhân viên làm việc tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Luật Nhà ở năm 2014 đã mở rộng phạm vi quyền sở hữu bất động sản tại Việt Nam cho các tổ chức nước ngoài. Bên cạnh các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư xây dựng bất động sản theo dự án tại Việt Nam, Luật cũng cho phép các tổ chức khác như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh và văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam sở hữu bất động sản tại đất nước này.
2. Về loại hình bất động sản mà tổ chức nước ngoài có quyền sở hữu:
Theo Nghị quyết 19/2008/QH12, chỉ có các căn hộ chung cư trong các dự án bất động sản thương mại là được doanh nghiệp nước ngoài sở hữu. Tuy nhiên, theo Luật Nhà ở năm 2014, doanh nghiệp nước ngoài có quyền mua, thuê mua, nhận tặng, hoặc thừa kế bất động sản thương mại, bao gồm cả căn hộ chung cư và các loại bất động sản riêng lẻ, trong các dự án đầu tư xây dựng bất động sản, trừ trường hợp nằm trong khu vực được quy định để bảo vệ quốc phòng và an ninh theo quy định của Chính phủ.
Điều này đại diện cho một sự mở rộng đáng chú ý so với quy định của Nghị quyết 19/2008/QH12, nhằm thúc đẩy và khuyến khích hoạt động đầu tư của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
3. Về số lượng bất động sản mà tổ chức nước ngoài có quyền sở hữu:
Các doanh nghiệp nước ngoài không có chức năng kinh doanh bất động sản chỉ được phép sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ trong một tòa nhà chung cư. Nếu là nhà ở riêng lẻ (bao gồm cả biệt thự và nhà ở liền kề), trên một khu vực có số dân tương đương với một đơn vị hành chính cấp phường, họ chỉ được sở hữu không quá 250 căn nhà.
Đối với các khu vực có dân số đông và nhiều tòa nhà chung cư hoặc nhà ở riêng lẻ trên một tuyến phố, số lượng cụ thể căn hộ hoặc nhà ở riêng lẻ mà tổ chức nước ngoài được phép sở hữu sẽ được quy định bởi Chính phủ.
Nếu tổ chức nước ngoài nhận tặng hoặc thừa kế bất động sản vượt quá số lượng quy định trước đây, họ chỉ được hưởng giá trị của bất động sản đó. Điều này là một điểm nổi bật trong chính sách về quyền sở hữu bất động sản của tổ chức nước ngoài, do Nhà nước quy định mở rộng loại hình bất động sản được sở hữu bởi tổ chức này.
4. Về thời hạn sở hữu bất động sản của tổ chức nước ngoài:
Luật Nhà ở năm 2014 vẫn duy trì quy định về thời hạn sở hữu bất động sản của tổ chức nước ngoài. Cụ thể, tổ chức nước ngoài có quyền sở hữu bất động sản theo thỏa thuận trong các giao dịch hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, hoặc thừa kế bất động sản, nhưng không thể vượt quá thời hạn ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư đã được cấp, bao gồm cả thời gian được gia hạn. Thời hạn sở hữu bất động sản được tính từ ngày tổ chức được cấp Giấy chứng nhận và được ghi rõ trong Giấy chứng nhận này.
Một điểm mới so với Nghị quyết 19/2008/QH12 là Luật Nhà ở năm 2014 đã chi tiết hóa cách xử lý bất động sản khi thời hạn sở hữu của tổ chức nước ngoài kết thúc ngay trong văn bản luật. Theo đó, trước khi thời hạn sở hữu kết thúc, chủ sở hữu có thể tặng hoặc bán bất động sản này cho các đối tượng đủ điều kiện sở hữu bất động sản tại Việt Nam.
Nếu không thực hiện việc bán hoặc tặng trước khi thời hạn kết thúc, bất động sản sẽ trở thành tài sản của Nhà nước Việt Nam.
Theo thông tin từ Chinhphu.vn.